Nhà cung cấp giải pháp một cửa cho sản xuất ống thu thập máu - Biol.
Tác động của huyết tương chống đông Heparin lên kết quả xét nghiệm sinh hóa
Hiện nay, sự phát triển không ngừng của công nghệ y tế đã chứng kiến sự gia tăng các phương pháp xét nghiệm, giúp chẩn đoán và phân biệt bệnh. Trước đây, các xét nghiệm sinh hóa được thực hiện bằng phương pháp tách huyết thanh. Hiện nay, việc sử dụng huyết tương chống đông heparin trong xét nghiệm sinh hóa là một phương pháp thăm khám lâm sàng tương đối phổ biến. Huyết tương chống đông heparin có thể được lấy nhanh hơn. Heparin là một mucopolysaccharide có trọng lượng phân tử lớn, chứa các nhóm sulfat và nhiều điện tích âm. Nó có tác dụng chống đông máu tốt, có thể ức chế hoạt động của thrombin và thromboplastin trong huyết tương, đạt được mục đích chống đông máu. Khi thực hiện các xét nghiệm sinh hóa trên bệnh nhân cấp cứu, việc sử dụng huyết tương chống đông heparin để xét nghiệm có thể ngăn ngừa sự kết tập ồ ạt của tiểu cầu trong huyết tương. Ngay cả ở nồng độ heparin thấp, nó cũng có thể ức chế hoạt động của serine protease trong huyết tương, ức chế chức năng của yếu tố X huyết tương, ngăn cản sự xúc tác của thrombin và vô hiệu hóa sự tương tác của hầu hết các yếu tố trong máu, do đó duy trì sự ổn định của các thành phần khác nhau.
Xét nghiệm các chỉ số sinh hóa của huyết thanh và huyết tương sau khi ly tâm, bao gồm ALT (Alanine Aminotransferase), AST (Aspartate Aminotransferase), CK (Creatine Kinase), GLU (Blood Glucose), CHOL (Total Cholesterol), TG (Triglyceride), CRE (Creatinine), UA (Uric Acid), TBIL (Total Bilirubin) và BUN (Blood Urea Nitrogen). Xác định K⁺ (Kali), Na⁺ (Natri) và CL⁻ (Cl) bằng máy phân tích điện giải.
Trong kết quả nghiên cứu, không có sự khác biệt đáng kể về các chỉ số ion như K⁺, Cl⁻ và Ca²⁺ giữa các mẫu huyết tương chống đông và các mẫu huyết thanh tách (P > 0,05). Tuy nhiên, nồng độ ion natri cho thấy sự thay đổi đáng kể trong xét nghiệm: nồng độ ion natri trong huyết tương chống đông thấp hơn nồng độ trong huyết thanh tách. Điều này chủ yếu là do huyết tương chống đông heparin có thể ức chế quá trình đông máu và duy trì sự ổn định của quá trình này. Hơn nữa, khi so sánh các chỉ số sinh hóa, không có sự khác biệt đáng kể về Cr (Creatinine), ALT (Alanine Aminotransferase) và AST (Aspartate Aminotransferase) giữa huyết tương chống đông và huyết thanh tách (P > 0,05). Tuy nhiên, về mặt GLU (Đường huyết), nồng độ trong huyết tương chống đông cao hơn nồng độ trong huyết thanh tách. Điều này là do bản thân heparin có tác dụng chống đông máu, có thể bảo tồn hoạt tính ban đầu của mẫu thử và ngăn ngừa đông máu huyết tương. Từ đó có thể thấy rằng huyết tương được chống đông bằng heparin đáp ứng các yêu cầu trong xét nghiệm sinh hóa và có thể hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân.
Tóm lại, khi tiến hành xét nghiệm sinh hóa trên bệnh nhân, việc sử dụng huyết tương chống đông heparin cho phép tách huyết tương nhanh chóng và kết quả xét nghiệm tương đối chính xác.
Tài liệu tham khảo
Yao Li. Tác động của huyết tương chống đông bằng natri heparin lên kết quả xét nghiệm sinh hóa khẩn cấp[J]. Y học cổ truyền Châu Á - Thái Bình Dương, 2010, 9(15): 739-740.
(https://www.aptm.com.cn/CN/1673-2197/home.shtml)
Chu Xuân Lệ. Phân tích hiệu quả của huyết tương chống đông bằng heparin trong các xét nghiệm sinh hóa khẩn cấp[J]. Tạp chí Y học tích hợp Trung Quốc, 2023, 8.
(https://sns.wanfangdata.com.cn/sns/perio/zxyjh/?tabId=article&publishYear=2025&issueNum=01&isSync=0&page=1)
Trần Mẫn. Phân tích tính khả thi của việc áp dụng huyết tương chống đông heparin trong các xét nghiệm sinh hóa khẩn cấp[J]. Tóm tắt thông tin y học mới nhất thế giới, 2019, 19(75): 175+179.
(https://sns.wanfangdata.com.cn/perio/sjzxyy-e)
Tel:86 13918801906
E-mail: marketing@sh-th.com.cn
Địa chỉ: Số 17, Lane 5, Đường Cao Nong, Quận Songjiang, Thượng Hải, Trung Quốc